Phong Thủy Tả Ao Hot Hot 2023



Tả Ao – Wikipedia tiếng Việt

Tả Ao

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Ban thờ Tả Ao tại đền Nam Trì.

Tả Ao (左幼) hay Tả Ao tiên sinh (左幼先生), là một thầy địa lý phong thủy người Việt Nam sống ở khoảng thế kỷ 15 hoặc thế kỷ 17 (theo các tài liệu khác nhau). Ông được cho là tác giả của một số cuốn sách Hán Nôm cổ truyền bá thuật phong thủy của Việt Nam. Cuộc đời ông cũng gắn với nhiều giai thoại trong dân gian về hành trạng thuật phong thủy của ông ở các làng xã Việt Nam thời xưa.[1]

Cuộc đời[sửa | sửa mã nguồn]

Tả Ao có quê ở làng Tả Ao, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay thuộc xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh). Cái tên Tả Ao không phải là tên thật của ông, mà là tên làng quê của ông, được ông lấy làm tên hiệu và gắn với tác phẩm của mình. Cũng tương truyền, tên ông được người xưa lấy tên làng, nơi ông sinh ra để gọi, mà không gọi tên thật. Có nhiều tài liệu khác nhau về tên thật của ông. Theo Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, ông tên là Hoàng Chiêm hay Hoàng Chỉ. Còn trong dân gian, xuất phát từ quê hương ông, lưu truyền tên gọi thật là Vũ Đức Huyền. Cũng có nguồn nói rằng ông có tên là Nguyễn Đức Huyền.

Tả Ao sinh vào khoảng năm Nhâm Tuất (1442), sống thời Lê sơ (Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông và Lê Uy Mục, tức là khoảng những năm 1442-1509)[cần dẫn nguồn]. Cũng có tài liệu cho rằng Tả Ao sinh sống trong khoảng đời vua Lê Hy Tông (1676-1704). Ngoài ra, các sách Địa lý phong thủy Tả AoĐịa lý Tả Ao chính tông của tác giả Vương Thị Nhị Mười; Nghiên cứu Phong thủy và Phong thủy Việt Nam của Ngô Nguyên Phi… cũng có trình bày sơ lược về lai lịch Tả Ao.

Các sử gia thời Lê Nguyễn đều không chép về ông nên cuộc đời ông chỉ được chép tản mát trong một số truyện, sách đại lý phong thủy thời nhà Nguyễn và sau này. Sách Hán Nôm được cho là do Tả Ao truyền lại gồm: Tả Ao chân truyền di thư (左 幼 真 傳 遺 書), Tả Ao chân truyền tập (左 幼 真 傳 集), Tả Ao chân truyền địa lý (5 tập-左 幼 真 傳 地 理), Tả Ao tiên sinh bí truyền gia bảo trân tàng (左 幼 先 生 祕 傳 家 寶 珍 藏), Tả Ao tiên sinh địa lý (左 幼 先 生 地 理), Tả Ao xã tiên sư thư truyền bí mật các lục (左 幼 社 先 師 書 傳 祕 宓各 局). Các tác phẩm này hiện lưu trữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Tuy nhiên Viện Hán Nôm cũng chú thích rằng: Tả Ao là tên hiệu của Hoàng Chiêm.

Tả Ao còn để lại hai bộ sách, đó là: Địa đạo Diễn ca (120 câu văn vần), Dã đàm hay Tầm Long gia truyền Bảo đàm (văn xuôi) và một số dị bản khác: “Phong thủy Địa lý Tả Ao Địa lý vi sư pháp”, “Phong thủy Địa lý Tả Ao Bảo ngọc thư” (của Vương Thị Nhị Mười-Nhà xuất bản Mũi Cà Mau-2005) và “Dã đàm Tả Ao” (của Cao Trung xuất bản tại Sài Gòn năm 1974)”…

Các sách vở cũng như truyền thuyết đều coi ông là Thánh Địa lý Tả Ao, trạng Tả Ao, là thủy tổ khai môn, đệ nhất về địa lý phong thủy Việt Nam, giỏi địa lý phong thủy như Cao Biền của Trung Quốc. Người đời xưa còn truyền lại bài thơ ca ngợi ông:[cần dẫn nguồn]

Tả Ao phong thủy nhất trên đời
Hoạ phúc cầm cân định chẳng sai
Mắt Thánh trông xuyên ba thước đất
Tay Thần xoay chuyển bốn phương Trời
Chân đi Long Hổ luồn qua gót
Miệng gọi trâu dê ứng trả lời
Ai muốn cầu sao cho được vậy
Mấy ai địa lý được như ngài

Giai thoại và truyền thuyết[sửa | sửa mã nguồn]

Tả Ao Tiên sinh – Thầy địa lý Tả Ao là ông Mỗ (không xác định được danh tính). Thuở nhỏ, mồ côi cha, nhà nghèo, mẹ mắt lòa, ông theo một khách buôn ở phố Phù Thạch (gần rú Thành ở Nghệ An) về Tàu để lấy thuốc chữa bệnh cho thân mẫu. Thầy thuốc khen Tả Ao có hiếu nên hết lòng dạy cho. Khi có thầy địa lý bị mù loà mời ông thầy đến chữa, do già yếu nên ông thầy sai Tả Ao đi chữa thay. Khi Tả Ao chữa khỏi mù loà, ông thầy địa lý nhìn thấy Tả Ao nghĩ bụng: Người này có thể truyền nghề cho được đây. Tả Ao cũng có ý muốn học, vả lại thấy Tả Ao thông minh, hiếu học, để trả ơn chữa bệnh nên thầy địa lý nọ đã truyền hết nghề, hơn một năm đã giỏi. Để thử tay nghề của học trò, ông thầy bèn đổ cát thành hình núi sông và vùi một trăm đồng tiền ở các huyệt đạo, rồi bảo Tả Ao tìm thấy huyệt thì xuyên kim xuống. Tả Ao đã cắm được chín chín kim đúng lỗ đồng tiền (chính huyệt), chỉ sai có một. Xong ông thầy nói: Nghề của ta đã sang nước Nam mất rồi. Rồi cho Tả Ao cái tróc long và thần chú. Tả Ao về nước Nam chữa khỏi bệnh cho thân mẫu.

Trước khi từ biệt, ông thầy địa lý bên Tàu dặn: Khi về Nam, nếu qua núi Hồng Lĩnh thì đừng lên. Nhưng một lần đi qua Hồng Lĩnh, không hiểu duyên cớ gì Tả Ao lại lên núi và thấy kiểu đất Cửu long tranh châu (chín rồng tranh ngọc), mừng mà nói rằng: Huyệt đế vương đây rồi, thầy dặn không lên là vì thế. Bèn đưa mộ cha về táng ở đấy. Ít lâu, vợ Tả Ao sinh hạ được một con trai.

Khi ấy, nhà Minh bên Trung Quốc, các thầy thiên văn phát hiện các vì tinh tú đều chầu về nước Nam nên tâu với nhà vua, ý là nước Nam được đất sẽ sinh ra người tài, sẽ hại cho nhà Minh. Vua bèn truyền các thầy địa lý là nếu ai đặt đất hoặc dạy cho người Nam thì phải sang tìm mà phá đi, nếu không sẽ bị tru di tam tộc. Ông thầy của Tả Ao biết là chỉ có học trò của mình mới làm được việc này nên cho con trai tìm đường xuống nước Nam mà hỏi: Từ khi đại huynh về đã cất được mộ phần gia tiên nào chưa. Tả Ao cũng thực tâm thuật lại việc đặt mộ cha mình. Con thầy Tàu dùng mẹo cất lấy ngôi mộ, bắt con trai của Tả Ao đem về Tàu. Rồi thân mẫu của Tả Ao mất, Tả Ao tìm được đất Hàm rồng ở ngoài nơi hải đảo để táng. Đến ngày giờ định táng thì trời gió to sóng lớn, không mang ra được. Lát sau trời yên, biển lặng ở đó nổi lên một bãi bồi, Tả Ao bèn than rằng: Đây là hàm rồng, năm trăm năm rồng mới há miệng một lần trong một khắc. Trời đã không cho thì đúng là số rồi. Rồi Tả Ao chán nản gia cảnh, bỏ quê hương chu du khắp bốn phương để chữa bệnh, tìm đất giúp người.

Khi già yếu, Tả Ao cũng đã chọn cho mình chỗ an táng kiểu đất Nhất khuyển trục quần dương (chó đuổi đàn dê) ở xứ Đồng Khoai. Nếu táng được ở đây thì chỉ ba ngày sau là thành Địa Tiên. Tả Ao có hai người con trai nhưng do Tả Ao chu du thiên hạ, không màng danh vọng, bổng lộc nên gia cảnh, con cái thì bần hàn. Lúc sáu lăm tuổi, biết mình sắp về chầu tiên tổ nên bảo hai con khiêng đến chỗ ấy, để nằm dưới mộ và sẽ tự phân kim (chôn lúc chưa chết hẳn), dặn con cứ thế mà làm. Mới được nửa đường, biết là sẽ chết trước khi đến nơi nên Tả Ao bèn chỉ đại một gò bên đường mà dặn con rằng: Chỗ kia là ngôi Huyết thực, bất đắc dĩ thì cứ táng ở đó, sẽ được người ta cúng tế. Hai con bèn táng luôn ở đó (Sách Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án – Nhà xuất bản Văn học 2001, sách Nam Hải dị nhân của Phan Kế Bính – Nhà xuất bản Thanh niên 1999).

Tả Ao tìm được chỗ táng cho thân mẫu ngoài bãi biển nhưng khi chuẩn bị táng thì mưa gió, sóng biển ầm ầm nên người anh trai sợ mất mộ nên không cho táng. Khi Tả Ao ngã bệnh phương xa mới sai học trò đưa về để táng tại nơi đã chọn. Về được nửa đường người học trò đó lại mất trước, Tả Ao hay tin thì ốm nặng bèn sai người nhà mang đến chỗ ấy. Đường thì xa, liệu chừng không đưa được đến nơi nên bèn chỉ cái gò bên dọc đường… (Sách Nam Hải dị nhân của Phan Kế Bính – Nhà xuất bản Thanh niên 1999).

Ngày nay ở Việt Nam vẫn còn nhiều truyền thuyết, giai thoại được sách vở ghi lại, truyền miệng trong dân gian như việc Tả Ao và Cao Biền thi thố tài năng (như Tả Ao phá trấn yểm của Cao Biền trên núi Tản Viên ở Hà Nội, núi Hàm Rồng ở Thanh Hóa,…), các truyền thuyết, giai thoại Tả Ao tìm nơi đất tốt để đặt đình chùa, đền miếu, mồ mả, nhà cửa; giúp dân nghèo, trị kẻ gian ác. Tương truyền làng này có tục nọ, nghề kia là do Tả Ao chọn đất, hướng đình; họ này phát danh khoa bảng, họ kia phát công hầu khanh tướng là do Tả Ao tìm long mạch, huyệt đạo đặt mồ mả. Có một truyền thuyết còn lưu truyền đến ngày nay tại thôn Nam Trì xã Đặng Lễ huyện Ân Thi tỉnh Hưng Yên (nơi có đền thờ Tả Ao): Truyền tích gắn liền với ngôi đền thờ Tả Ao làng Nam Trì[2] còn lưu truyền đến ngày nay là thời kỳ Tả Ao ở khu vực Hưng Yên một thời gian. Tả Ao về huyện Thiên Thi (tên cũ của Ân Thi) đã cắm đất, chọn ngày xây đình chùa, đặt mồ mả để cho hai làng Thổ Hoàng (nay thuộc thị trấn Ân Thi) và Hới (tức làng Hải Triều, trước thuộc huyện Tiên Lữ, nay thuộc Hưng Yên) phát về đường khoa cử, giàu có nên lưu truyền trong dân gian câu ngạn ngữ nhất Thi nhì Hới. Tại Nam Trì, Tả Ao đã giúp dân làng lập lại làng, chuyển đền, chùa và tìm đất đặt mộ phần cho họ Đinh tại gò Tam Thai vượng về võ tướng. Đến năm Giáp Thìn niên hiệu Quảng Hòa thứ 4 (1544) đời Mạc Phúc Hải, người họ Đinh làng Nam Trì là Đinh Tú đỗ Đệ tam giáp Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân và được bổ nhiệm làm quan Hiến Sát xứ Hải Dương, được phong tước Phù Nham bá.[3] Hậu duệ của Đinh Tú (lăng mộ tại Nam Trì), chuyển sang sống ở làng Hàm Giang (Hàn Giang) huyện Cẩm Giàng là Đinh Văn Tả là một danh tướng thời Lê-Trịnh.

Đền thờ[sửa | sửa mã nguồn]

Có rất nhiều truyền thuyết, giai thoại được sách vở ghi lại, nhất là giai thoại khi Tả Ao mất, táng ở “ngôi Huyết thực” để được một làng cúng tế. Thực tế, cũng chưa thấy ở đâu (kể cả ở quê hương) có đền thờ Tả Ao và cũng không thấy Tả Ao được phong thần. Hiện nay, có lẽ là duy nhất ở thôn Nam Trì xã Đặng Lễ huyện Ân Thi tỉnh Hưng Yên có thờ Tả Ao. Đền Nam Trì nguyên thờ tam vị Thượng đẳng phúc Thần: Thừa tướng Lữ Gia (Bảo Công), tướng Nguyễn Danh Lang (Lang Công), Cao Biền (Cao Vương) và Tả Ao gắn với Lễ hội Nam Trì (hay Lễ hội: Bảo, Lang, Biền). Trong danh sách 7 vị thần thờ ở đền Nam Trì (3 vị trên và 1 vị phu nhân Lữ Gia và 2 vị phu nhân Cao Biền) thì vị thứ 7 là Nguyễn Lang nhưng thực tế ở Nam Trì thì chỉ biết vị thứ 7 là Tả Ao chứ không biết Nguyễn Lang là ai.

Theo lịch sử và thần tích thờ tự đền Nam Trì thì khi Tả Ao giúp dân làng lập lại làng, chuyển chùa, đền thờ về phía Tây Nam; nhớ công ơn Tả Ao dân làng Nam Trì đã tôn Tả Ao là vị Bản cảnh Thành hoàng và thờ cùng tam vị Thượng đẳng phúc Thần từ đó đến nay. Hiện trong đền Nam Trì có câu đối của Tả Ao tả về địa lý, phong thủy làng Nam Trì: Tây lộ khê lưu kim tại hậu – Đông giang thủy tụ mộc cư tiền nghĩa là phía tây của đường làng có dòng nước chảy, phía sau của làng là hướng Tây Bắc (hướng tây bắc hành kim) – phía đông làng có sông nước tụ làng nhìn về hướng đông nam (hướng đông nam hành mộc).

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Cao Biền

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Sách Địa lý Tả Ao Chính tông và 3 tập Địa lý Phong thủy Tả Ao (Vương Thị Nhị Mười-Nhà xuất bản Mũi Cà Mau-2005)
  • Nghiên cứu Phong thủy và Phong thủy Việt Nam (Ngô Nguyên Phi-Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin-2002)
  • Sách Tả Ao Địa Lý Toàn Thư, Địa lý Tả Ao bí thư Đại toàn (Cao Trung-Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn-2008)

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

  • Viện Nghiên cứu Hán Nôm
  • Thần tích Thánh địa lý Tả Ao và đền – đình Nam Trí, thôn Nam Trì, xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng yên

Tả Ao – nhà phong thủy lừng danh đất Việt – Ngô Tộc

Tả Ao – nhà phong thủy lừng danh đất Việt

Đền thờ cụ Tả Ao ở thôn Nam Trì, xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. (Ảnh qua kienthuc.net.vn)

Tả Ao được xem là nhà phong thủy kiệt xuất của người Việt. Dân gian xem ông là nhà địa lý phong thủy giỏi nhất từ xưa đến nay ở Việt Nam và tôn ông là “Thánh phong thủy”. Người ta còn truyền tụng bài thơ về ông thế này:

Tả Ao phong thủy nhất trên đời
Họa phúc cầm cân định chẳng sai.
Mắt thánh trông xuyên ba thước đất,
Tay thần xoay chuyển bốn phương trời.
Chân đi long hổ luồn qua gót,
Miệng gọi trâu dê ứng trả lời.
Ai muốn cầu sao cho được vậy
Ấy ai địa lý được như ngài.

Nhưng câu chuyện về nhân duyên đến với phong thủy của Tả Ao thì không phải ai cũng biết…

Tấm lòng hiếu thảo của cậu bé nghèo khổ

Tả Ao tên thật là Nguyễn Đức Huyền, người làng Tả Ao, tỉnh Hà Tĩnh, sống vào thời vua Lê. Khi còn nhỏ, gia cảnh cậu bé Đức Huyền rất nghèo khó, cha mất sớm, mẹ lại bị mù cả hai mắt. Dù nhỏ, Đức Huyền vẫn rất chăm chỉ làm hết tất cả các việc để chăm sóc mẹ.

Thấy mẹ không thể nhìn thấy được như những người khác, Đức Huyền thường hay tìm hiểu hỏi thăm cách chữa mắt cho mẹ. Cậu lặn lội tới cả những nơi xa xôi với hy vọng tìm được người chữa khỏi bệnh cho mẹ nhưng đều không có hiệu quả. Tuy nhiên, Đức Huyền không hề nản chí mà quyết tìm bằng được phương thuốc chữa mắt.

Nghe tin về một ông thầy thuốc người Tàu rất giỏi về thuật chữa mắt đang ở đất Nam, Đức Huyền khấp khởi vui mừng. Nhưng do nhà quá nghèo không đủ tiền chữa trị, nên Đức Huyền đã xin hầu hạ thầy để mong thầy chữa bệnh cho mẹ mình.

Ông thầy người Tàu thấy chàng trai này rất siêng năng chăm chỉ, thông minh, đặc biệt lại rất hiếu thảo với mẹ, nên đã đồng ý chữa. Trong quá trình đó, ông cũng truyền cho Đức Huyền một số y thuật để chữa mắt.

Sau bao nhiêu năm chịu cảnh mù lòa, đôi mắt mẹ Đức Huyền đã sáng trở lại. Thế nhưng đó cũng là lúc ông thầy người Tàu phải về nước. Quý tiếc cơ duyên đối với y thuật, Đức Huyền vội vã xin được theo thầy để hầu hạ, học y thuật chữa mắt và đã được thầy đồng ý. Vậy là cậu từ biệt mẹ lên đường sang Trung Hoa.

Kỳ duyên đến với phong thủy

Sau này tại Trung Hoa, y thuật của Đức Huyền vang danh khắp nơi. Một thầy địa lý bị đau mắt đã phải nhờ đến sự chữa trị của Đức Huyền mới khỏi. Ông ta mang tới 50 lượng vàng để hậu tạ Đức Huyền, nhưng cậu không nhận mà xin làm đệ tử. Thấy cậu là người có tài đức lại ham học hỏi, nên thầy địa lý bằng lòng thu nhận cậu làm đồ đệ.

Sau một thời gian, Đức Huyền đã thành thạo tất những những kiến thức mà thầy truyền thụ lại cho mình và xin phép về nước. Tương truyền để kiểm tra và thử tài đệ tử mình, trước khi chia tay, vị thầy địa lý đã làm một mô hình phong thủy, chôn 100 đồng tiền, rồi yêu cầu Đức Huyền dùng kim điểm đúng huyệt chôn tiền.

Đức Huyền đã dùng kim điểm đúng 99 huyệt, còn một cây điểm ở mép, mà huyệt này lại là huyệt thứ 100. Đây là huyệt ảo, vì mô hình tạo dáng rất huyền bí, ẩn hiện dưới những mô đất nhấp nhô, những thầy địa lý giỏi cũng khó phát hiện ra đúng huyệt đạo. Lúc này thầy địa lý kia mới thốt lên rằng: “Thôi, nghề của ta từ nay truyền sang nước Nam rồi!”
Trước khi từ biệt về nước, thầy cẩn thận dặn dò Đức Huyền rằng: “Khi về Nam, nếu qua núi Hồng Lĩnh thì đừng lên”.

Nhà phong thủy không thay đổi được thiên mệnh

Khi trở về quê hương, Đức Huyền làm nghề bốc thuốc chữa bệnh cho người dân, ít khi sử dụng đến khoa địa lý. Chỉ khi nào cần thiết ông mới ra tay xem thế đất dùm mọi người. Tuy vậy danh tiếng xem địa lý, phong thủy của ông lại nổi hơn nghề thầy thuốc. Vì ông là người làng Tả Ao nên người dân vẫn thường gọi ông là cụ Tả Ao.

Trong sách “Nam Hải dị nhân” có kể rằng một lần đi qua núi Hồng Lĩnh, Tả Ao tình cờ lên núi và phát hiện thế đất “Cửu long tranh châu”, tức là chín rồng tranh ngọc, ngọc ở đây mang ý nghĩa là “ngọc tỷ truyền quốc”, có được ngọc cũng có nghĩa là có được thiên hạ. Thấy vậy, Tả Ao liền mừng rỡ mà nghĩ rằng: “Huyệt đế vương đây rồi, thầy dặn không lên là vì thế”. Sau đó Tả Ao đưa mộ cha về táng ở đấy.

Ít lâu sau, vợ Tả Ao sinh được con trai. Khi đó là vào thời nhà Minh ở Trung Hoa. Các thầy thiên văn phát hiện rằng các vì tinh tú đều chầu về phương Nam, liền báo với vua Minh rằng nước Nam sinh được nhân tài sẽ hại cho nhà Minh. Vua Minh bèn truyền cho các thầy địa lý rằng nếu ai đặt đất hoặc dạy cho người Nam thì phải sang tìm mà phá đi, nếu không sẽ bị tru di tam tộc.

Thầy của Tả Ao biết ngay chỉ có học trò của mình mới làm được việc này, nên cho con trai đi tìm Tả Ao. Con của thầy địa lý đã tìm cách cắt lấy ngôi mộ của cha Tả Ao, và bắt con trai của Tả Ao đem về Tàu.

Sau này, biết đất Hàm Rồng có huyệt quý ở ngoài hải đảo, khi mẹ mất, Tả Ao đưa di hài mẹ đến nơi đây để táng. Ông chọn đúng ngày giờ thì lại gặp lúc sóng to gió lớn, không sao đưa đến huyệt để táng được. Đợi đến khi trời yên biển lặng thì nơi đó nổi lên một bãi bồi. Tả Ao chỉ còn nước than thở: “Đây là hàm rồng, năm trăm năm rồng mới há miệng một lần trong một khắc. Trời đã không cho thì đúng là số rồi”.

Từ đó, Tả Ao cũng hiểu rõ về phong thủy hơn, biết dù giỏi địa lý cũng không thể thay đổi được số mệnh. Ông ít khi ở nhà mà chu du bốn phương chữa bệnh giúp người, thỉnh thoảng tìm đất cho người có duyên, không màng đến công danh bổng lộc.

Ông giúp dân tìm chọn nơi đào giếng có nước lành, trong ngon, không cạn, không chạm long mạch; chọn hướng đình để làng yên ấm trong ngoài, dân cư phát triển. Trong dân gian lưu truyền rất nhiều câu chuyện ly kỳ về nhà phong thủy đại tài này.

Giếng nước làm mắt cá.

Một trong những giai thoại là việc cụ Tả Ao chữa thế đất cho làng Hành Thiện ở Nam Định. Khi đi tới ngôi làng này, cụ cho dân làng biết đất làng hình con cá chép bơi ra biển, phù sa mỗi ngày một bồi thêm đất làm làng hưng phát, chỉ hiềm con cá chép không có mắt nên không phát khoa danh.

Dân làng nghe cụ nói liền thết đãi và khẩn khoản nhờ cụ giúp xem lại hướng làng. Cụ liền chỉ cho dân đào một cái giếng làm mắt cho cá chép. Từ đấy dân làng bắt đầu phát khoa danh, nhất là họ Đặng.


 

Giếng làm mắt cá tại làng Hành Thiện vẫn còn tới ngày nay. (Ảnh: disanlangviet.com)

Lúc già yếu, cụ Tả Ao đã chọn sẵn cho mình một thế đất “Nhất khuyển trục quần dương” (chó đuổi đàn dê) ở xứ Đồng Khoai. Nếu táng được ở đây thì chỉ ba ngày sau là thành Địa Tiên, nhưng cần chôn ngay trước khi chết để tự phân kim.

Tuy nhiên lúc sắp lâm chung, con cụ Tả Ao đưa đến mộ được nửa đường thì cụ biết không kịp. Thấy rằng số phận cũng không cho mình ở ngôi đất tốt, cụ nhìn bên đường rồi chỉ đại vào một cái gò và nói với các con rằng: “Chỗ kia là ngôi Huyết thực, bất đắc dĩ thì cứ táng ở đó, sẽ được người ta cúng tế”. Hai con cụ nghe lời và táng luôn ở đó.

Cả đời cụ Tả Ao tìm đất cho không biết bao nhiêu người, nhưng bản thân cụ dù tìm được đất tốt cũng không thể hưởng. Thậm chí dù đã chuẩn bị sẵn đất để chôn chính bản thân mình nhưng lại cũng không được. Sự việc này cho thấy câu nói “tiên tích đức, hậu tầm long” của người xưa rất chính xác. Giỏi như cụ Tả Ao mà tích chưa đủ đức thì có tìm được đất đế vương cũng không thể hưởng.

Gia tài nhà phong thủy Tả Ao để lại chỉ vỏn vẹn 2 cuốn sách nhỏ là “Địa Lý Tả Ao (Địa Đạo Diễn Ca)” gồm 120 câu và “Dã Đàm Tả Ao Tầm Long Gia Truyền”. Nhiều sách khác cũng được xem là của cụ nhưng thực ra đều là dị bản, chủ yếu là từ 2 cuốn sách trên của cụ rồi dẫn giải thêm bớt. Ngày nay tại huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh vẫn còn đền thờ Tả Ao và giếng Tả Ao.

Trần Hưng
(Theo Trí Thức VN)

Những giai thoại cổ về hành trạng thuật phong thủy của …

Những giai thoại cổ về hành trạng thuật phong thủy của Thánh Tả Ao

Nhân duyên đến với phong thủy

Người đời xưa truyền lại:

Tả Ao phong thủy nhất trên đời

Họa phúc cầm cân định chẳng sai.

Mắt thánh trông xuyên ba thước đất,

Tay thần xoay chuyển bốn phương trời.

Chân đi long hổ luồn qua gót,

Miệng gọi trâu dê ứng trả lời.

Ai muốn cầu sao cho được vậy

Ấy ai địa lý được như ngài. 

Tả Ao không phải tên thật của bậc thầy địa lý xứ Nam ta, mà là tên làng quê nơi ông sinh ra, được ông lấy làm tên hiệu và gắn với các tác phẩm của mình. Đó là làng Tả Ao, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An, tức huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay. Tên thật của ông thì chưa một sử sách nào khẳng định chắc chắn.

Bách khoa toàn thư Việt Nam ghi “Tả Ao”, sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú ghi tên ông là “Hoàng Chiêm” hay “Hoàng Chỉ”. Còn trong dân gian, xuất phát từ người cùng quê với ông, lưu truyền tên gọi thật là Vũ Đức Huyền. Cũng có nguồn nói rằng ông có tên là Nguyễn Đức Huyền. 

Năm sinh của ông cũng không hề rõ ràng, có tài liệu cho rằng Tả Ao sinh vào khoảng năm Nhâm Tuất (1442), sống thời Lê Sơ, tức là khoảng những năm 1442-1509). Tuy nhiên, có tài liệu lại cho rằng, Tả Ao sinh sống trong khoảng đời Vua Lê Hy Tông (1676-1704). 

Dù cho tên tuổi của ông chưa hề có sự thống nhất nhưng tài năng và cuộc đời của ông xưa nay vẫn được lưu truyền trong dân gian luôn là độc bản. Thuở nhỏ, gia cảnh nghèo khó, ông mồ côi cha, mẹ lại mắc bệnh mù lòa. Vì muốn tìm cách chữa bệnh cho mẹ ông theo một khách buôn sang Tàu để lấy thuốc chữa bệnh cho thân mẫu. Thầy thuốc đất Tàu thấy Tả Ao là một người có hiếu nên hết lòng dạy nghề lang dược. 

Khi đó, nơi đây cũng có một thầy địa lý bị mù loà mời thầy lang đến chữa, do già yếu nên ông thầy sai Tả Ao đi chữa thay. Khi Tả Ao chữa khỏi mù loà, ông thầy địa lý nhìn thấy Tả Ao nghĩ bụng: “Người này có thể truyền nghề cho được đây”.

Ông thầy địa lý nhận thấy tố chất thông minh, hiếu học của Tả Ao, để trả ơn chữa bệnh nên thầy địa lý nọ đã truyền hết nghề. Không phụ lòng thầy chỉ hơn một năm sau Tả Ao đã tinh thông những gì được truyền dạy.  

Trước ngày về, để thử tay nghề của học trò, thầy địa lý bèn đổ cát thành hình núi sông và vùi 100 đồng tiền ở các huyệt đạo, rồi bảo Tả Ao tìm thấy huyệt thì xuyên kim xuống. Tả Ao đã cắm được 99 kim đúng lỗ đồng tiền (chính huyệt), chỉ sai có một. Xong ông thầy nói: “Nghề của ta đã sang nước Nam mất rồi”, rồi cho Tả Ao cái tróc long và thần chú. Tả Ao về nước Nam chữa khỏi bệnh cho thân mẫu.

Khi trở về quê hương, Đức Huyền làm nghề bốc thuốc chữa bệnh cho người dân, ít khi sử dụng đến khoa địa lý. Chỉ khi nào cần thiết ông mới ra tay xem thế đất giùm mọi người. Tuy vậy, danh tiếng xem địa lý, phong thủy của ông lại nổi hơn nghề thầy thuốc. 

Hành thiện giúp đời

Ngày nay ở Việt Nam vẫn còn nhiều truyền thuyết, giai thoại được sách vở ghi lại, truyền miệng trong dân gian như việc Tả Ao tìm nơi đất tốt để đặt đình chùa, đền miếu, mồ mả, nhà cửa; giúp dân nghèo, trị kẻ gian ác… Một trong những câu chuyện ấy là huyền thoại giếng mắt cá của làng Hành Thiện ở huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. 

Trải qua bao đời, người dân làng Hành Thiện giờ đây vẫn kể lại, một lần khi đi tới phủ Xuân Trường, ngài Tả Ao phải đi đò sang sông, đến gần bến thì phải lội xuống bùn mới lên được bờ. Lúc ấy một người khách người làng Hành Thiện đi cùng chuyến đò đã hào hiệp cõng ông qua quãng lầy lội.

Khi tới làng Hành Thiện ông lại được người dân khoản đãi nồng hậu. Trước tấm lòng mến khách, hào phóng và trượng nghĩa của người dân nơi đây, Tả Ao mới ngỏ ý xem xét thế đất cho họ. 

Những giai thoại cổ về hành trạng thuật phong thủy của Thánh Tả Ao ảnh 1
 Bản đồ làng Hành Thiện mang hình cá chép bơi ra biển được Tả Ao bày cho đào giếng tạo thành mắt cá.

Sau khi ngắm hướng, Tả Ao tới chỗ mỏm đất trước cửa đền Thần Hoàng, nói rằng vì con cá còn thiếu mắt, nên cần đào giếng làm mắt cá. Sau khi đào xong, ông dặn dò dân làng, cần phải giữ sạch sẽ vì giếng nước này rất thiêng, nếu được vậy thì trong làng ắt có người làm thầy, làm quan, giàu có nhất vùng. Quả nhiên lời Tả Ao ứng nghiệm, từ ngày đào giếng, Hành Thiện ngày càng thịnh phát, nổi tiếng là ngôi làng Nho gia, nam thì học hành thi cử đỗ đạt, nữ thì dệt lụa ươm tơ. 

Theo Hội trưởng Hội khuyến học làng Hành Thiện, ông Nguyễn Đăng Hùng tổng kết, thời phong kiến Hành Thiện có 419 người đỗ đạt, trong đó 7 người đỗ đại khoa với 3 tiến sĩ, 4 phó bảng, 97 cử nhân, 315 tú tài.

Thời nay, Hành Thiện có 45 người là giáo sư và phó giáo sư; 166 người là tiến sĩ, thạc sĩ; hơn 1.500 người tốt nghiệp đại học. Một số yếu nhân như cố Tổng Bí thư Trường Chinh cũng được sinh ra ở vùng đất địa linh này. “Đậu phụ Thuỷ Nhai, tú tài Hành Thiện” chính là nói đến điều này.

Theo TS Nguyễn Hoàng Điệp – Giám đốc Trung tâm dịch thuật, dịch vụ Văn hóa và Khoa học Công nghệ thì “Trấn yểm phong thủy được xem là một môn khoa học chứ không hẳn là tâm linh. Trong đó, những thầy địa lý phong thủy ngoài vốn kiến thức am tường về kiến trúc, hướng gió, mạch nước thì họ còn biết cách thu hút khí tốt, năng lượng tốt phục vụ tốt hơn cho đời sống con người”.

“Tiên là tích đức, 

sau là tìm long”

Trong phần mở đầu của cuốn sách bí truyền “Dã Đàm Tả Ao”, điều ngài Tả Ao nhắn nhủ hậu nhân không phải là tìm long mạch ra sao, trấn yểm thế nào, mà là tích đức, tu thân:

“Đạo cao, đức trọng, chưng thân.

Hổ long liên phục, quỷ thần liên kinh.

Đức, nhân vốn ở cả mình.

Tiên là tích đức, hậu là tầm long”.

Dù rằng trong suốt cuộc đời mình, ông đã giúp nhiều vùng đất được hưng thịnh, nhiều gia đình phát lộc, nhiều hiền nhân phát tài, nhưng chính bản thân ông lại không thể thay đổi được mệnh trời. 

Trong cuốn “Nam Hải dị nhân” có ghi lại, khi ngài Tả Ao học địa lý thành tài, trước khi chia tay thầy để trở về cố hương, ông đã được thầy căn dặn: “Về đến nước Nam, nhớ đừng lên núi Hồng Lĩnh”. Nhưng một lần qua Hồng Lĩnh, ông tò mò bèn trèo lên xem thử, thì ra đó là huyệt “Cửu long tranh châu”, chính là huyệt đế vương vô cùng quý hiếm. Ông bèn đưa mộ cha về an táng trên núi. 

Không lâu sau, vợ ông sinh được một người con trai. Ở phương Bắc cùng lúc đó các thầy thiên văn phát hiện thấy có nhiều vì tinh tú cùng chầu về nước Nam. Nhà Minh thấy vậy, lập tức ra lệnh cho các thầy địa lý phải sang tìm cách mà phá đi, nếu không sẽ tru di tam tộc. Thầy dạy của Tả Ao biết rằng chỉ có học trò mình mới làm được điều này, bèn sai con trai sang “đoái công chuộc tội”.

Con trai ông thầy sau khi điều tra kỹ lưỡng đã yểm phá huyệt đạo, rồi bắt con trai cả của Tả Ao mang về Bắc quốc, khi ông nhận ra thì đã quá muộn màng.

Đến lúc thân mẫu qua đời, Tả Ao đã lặn lội tìm thế đất Hàm Rồng ở mãi ngoài hải đảo để an táng mẹ. Đến ngày giờ đã định thì bỗng nhiên sóng to, gió lớn nổi lên, đến khi trời yên bể lặng ở đó nổi lên một bãi bồi. Tả Ao biết ý Trời không thuận, bèn than rằng: “500 năm rồng mới há miệng trong một lần một khắc, Trời đã không cho thì đúng là số rồi”.

Những giai thoại cổ về hành trạng thuật phong thủy của Thánh Tả Ao ảnh 2
 Giếng làm mắt cá tại làng Hành Thiện vẫn còn tới ngày nay.

Lại nói, một lần đi qua làng Thiên Mỗ, ngài Tả Ao thấy có ngôi đất to, biết là huyệt quý, nên định táng hộ cho nhà họ Trần. Nhưng không hiểu sao tróc long của ông không đặt được xuống đất, hễ đặt là đổ, ông bèn gọi Thổ thần lên hỏi.

Thổ thần trả lời rằng: “Đất này phát ba đời quốc sư đại vương, con cháu công hầu không bao giờ hết. Thiên thượng đã để dành cho nhà họ Nguyễn, còn nhà họ Trần kia ít phúc, không xứng để được đất này, nếu ông cưỡng mệnh Trời thì tất có tai vạ. Vả lại ông đi khắp thiên hạ, làm phúc cho người ta đã nhiều, mà không được ngôi nào để táng cho cha mẹ, ông nên nghĩ thế thì biết”.

Tả Ao lĩnh chỉ ý Thần, hiểu rằng phúc là từ đức mà ra, tài lộc nhiều hay ít cũng là do đức dày hay mỏng. Vậy mới nói “phong thuỷ chỉ dưỡng người tích thiện”, thầy địa lý dẫu cao tay đến đâu cũng không thể dựa vào phong thuỷ để thay đổi mệnh Trời. Gia cảnh ông bần hàn, con cháu khó khăn tất cả đều có nguyên do. 

Những năm cuối đời Tả Ao chu du khắp thiên hạ, không màng danh lợi, không ham phú quý, công danh, mà mượn phong thuỷ để giúp người thiện đức nhưng không truyền nghề cho con cháu. Gia tài nhà phong thủy Tả Ao để lại chỉ vỏn vẹn 2 cuốn sách nhỏ là “Địa Lý Tả Ao (Địa Đạo Diễn Ca)” gồm 120 câu và “Dã Đàm Tả Ao Tầm Long Gia Truyền”.

Nhiều sách khác cũng được xem là của cụ nhưng thực ra đều là dị bản, chủ yếu là từ 2 cuốn sách trên của cụ rồi dẫn giải thêm bớt. Ngày nay tại huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh vẫn còn đền thờ Tả Ao và giếng Tả Ao.

Related Posts